Biến chứng sau phẫu thuật là gì? Các công bố khoa học về Biến chứng sau phẫu thuật

Biến chứng sau phẫu thuật là các vấn đề hoặc tình trạng xảy ra sau quá trình phẫu thuật. Các biến chứng này có thể gây ra nhiều rủi ro cho bệnh nhân và có thể y...

Biến chứng sau phẫu thuật là các vấn đề hoặc tình trạng xảy ra sau quá trình phẫu thuật. Các biến chứng này có thể gây ra nhiều rủi ro cho bệnh nhân và có thể yêu cầu sự can thiệp điều trị bổ sung. Một số ví dụ về biến chứng sau phẫu thuật bao gồm nhiễm trùng, sưng, chảy máu, phù, huyết khối, mất cân bằng huyết áp, truyền máu không mong muốn, vấn đề liên quan đến gây mê, v.v.
Dưới đây là một số biến chứng sau phẫu thuật chi tiết hơn:

1. Nhiễm trùng: Đây là một trong những biến chứng phổ biến sau phẫu thuật, khi vi khuẩn hoặc mầm bệnh xâm nhập vào vết mổ và gây viêm nhiễm. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, nhiễm trùng có thể lan rộng và gây ra hậu quả nghiêm trọng.

2. Sưng: Phẫu thuật có thể gây ra sưng tại vùng mổ hoặc xung quanh vùng mổ. Sưng có thể gây đau, hạn chế chức năng và làm trì hoãn quá trình phục hồi.

3. Chảy máu: Một trong những biến chứng phổ biến sau phẫu thuật là chảy máu. Vết mổ có thể tiếp tục chảy máu hoặc có thể hình thành tiếp máu trong vùng bên ngoài của vết mổ. Trong một số trường hợp, chảy máu không kiểm soát được có thể đòi hỏi tiếp tục can thiệp phẫu thuật để kiểm soát chảy máu.

4. Phù: Phẫu thuật có thể làm tăng lượng nước trong cơ thể ở những vùng mô xung quanh vết mổ, gây ra phù. Phù sau phẫu thuật thường ở dạng tạm thời và thường giảm đi sau một thời gian.

5. Huyết khối: Đau sau phẫu thuật và việc tiếp xúc ít với vận động có thể gây tăng nguy cơ hình thành huyết khối. Huyết khối có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng như đột quỵ hoặc tử vong.

6. Mất cân bằng huyết áp: Phẫu thuật và trạng thái sau phẫu thuật có thể ảnh hưởng đến huyết áp của bệnh nhân, gây ra mất cân bằng huyết áp. Căng thẳng, cường độ đau, thay đổi liều dược, v.v. có thể gây ra mất cân bằng huyết áp và gây ra biến chứng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc suy tim.

7. Vấn đề liên quan đến gây mê: Anesthesia và các chất gây mê có thể gây ra tác dụng phụ như buồn ngủ, mệt mỏi, buồn nôn, sưng môi miệng, khó thở, v.v. Biến chứng nghiêm trọng liên quan đến gây mê như shock gây mê hoặc yếu tố kích thích vận động cơ thể (malignant hyperthermia) cũng có thể xảy ra, nhưng rất hiếm.

8. Truyền máu không mong muốn: Trong một số trường hợp, phẫu thuật có thể gây ra mất máu nặng và đòi hỏi truyền máu. Tuy nhiên, việc truyền máu cũng có thể gây biến chứng như dị ứng, lây nhiễm, phản ứng hệ thống miễn dịch, v.v.

Mỗi phẫu thuật có thể gây ra các biến chứng khác nhau và nghiêm trọng động từ nhẹ đến nghiêm trọng. Vì vậy, rất quan trọng để theo dõi và xử lý biến chứng một cách kịp thời và chính xác để giảm thiểu tác động xấu lên sức khỏe của bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "biến chứng sau phẫu thuật":

Phân Tích Nguyên Nhân Gốc Của Tử Vong Sau Phẫu Thuật Cắt Tuyến Tụy Lớn Dịch bởi AI
Elsevier BV - Tập 16 - Trang 89-103 - 2011
Mặc dù tỷ lệ tử vong do phẫu thuật cắt tuyến tụy đã giảm trên toàn thế giới, cái chết vẫn là một sự kiện hiếm gặp nhưng sâu sắc ở mức độ thực hành cá nhân. Phân tích nguyên nhân gốc là một phương pháp hồi cứu thường được sử dụng để hiểu các sự kiện bất lợi. Chúng tôi đánh giá xem các công cụ đánh giá nguy cơ tử vong mới nổi có đủ khả năng dự đoán và giải thích các sự kiện lâm sàng thực tế thường được xác định bằng phân tích nguyên nhân gốc hay không. Chúng tôi đã thành lập một Nhóm Nghiên Cứu Tử Vong Phẫu Thuật Tuyến Tụy gồm 36 bác sĩ phẫu thuật tuyến tụy từ 15 cơ sở ở 4 quốc gia. Các trường hợp tử vong sau phẫu thuật cắt tuyến tụy (30 và 90 ngày) đã được thu thập từ năm 2000 đến 2010. Đối với phân tích nguyên nhân gốc, mỗi bác sĩ phẫu thuật đã "phân tích" các sự kiện lâm sàng trước khi có cái chết để xác định nguyên nhân. Chúng tôi tiếp theo đã kiểm tra xem các công cụ đánh giá nguy cơ tử vong (ASA, POSSUM, Charlson, SOAR và NSQIP) có thể dự đoán những bệnh nhân nào sẽ tử vong (n = 218) và so sánh độ chính xác tiên lượng của chúng với một nhóm phẫu thuật mà không có bệnh nhân nào tử vong (n = 1,177). Hai trăm mười tám ca tử vong (184 ca cắt Whipple, 18 ca cắt đuôi tụy và 16 ca cắt hoàn toàn tuyến tụy) đã được xác định từ 11,559 ca phẫu thuật cắt tuyến tụy do các bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm trung bình 14.5 năm thực hiện. Tỷ lệ tử vong 30 ngày và 90 ngày tổng thể lần lượt là 0.96% và 1.89%. Tỷ lệ của từng bác sĩ phẫu thuật dao động từ 0% đến 4.7%. Chỉ có 5 bệnh nhân chết trong khi phẫu thuật, trong khi 213 người còn lại qua đời với thời gian trung bình là 29 ngày. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 70 tuổi (38% trên 75 tuổi). Ung thư là chỉ định trong 90% các trường hợp, chủ yếu là ung thư tụy (57%). Thời gian phẫu thuật trung bình là 365 phút và mất máu ước tính là 700 cc (khoảng từ 100 đến 16,000 cc). Sửa chữa mạch máu hoặc cắt bỏ đa tạng là cần thiết cho 19.7% và 15.1%, tương ứng. Bảy mươi bảy phần trăm có nhiều biến chứng nghiêm trọng trước khi tử vong. Tám mươi bảy phần trăm cần chăm sóc tại đơn vị chăm sóc tích cực, 55% được truyền máu và 35% đã được phẫu thuật lại. Năm mươi phần trăm chết trong thời gian nhập viện ban đầu, trong khi 11% còn lại chết sau khi nhập viện lại. Gần một nửa (n=107) qua đời giữa 31 và 90 ngày. Chỉ có 11% được khám nghiệm tử thi. Các biến chứng liên quan đến phẫu thuật góp phần vào 40% số ca tử vong, trong đó rò tụy là rõ ràng nhất (14%). Các lỗi kỹ thuật (21%) và lựa chọn bệnh nhân kém (15%) được bác sĩ phẫu thuật chỉ ra. Trong số các ca tử vong, 5.5% có tiến triển ung thư đi kèm, tất cả xảy ra giữa 31 và 90 ngày. Ngay cả sau khi xem xét nguyên nhân gốc, nguyên nhân cuối cùng của cái chết không thể được xác định đối với một phần tư số bệnh nhân, thường là giữa 31 và 90 ngày. Trong khi các mô hình nguy cơ đa dạng dự đoán tỷ lệ tử vong với độ phân biệt khác nhau từ những trường hợp không tử vong, chúng nhất quán đánh giá thấp các sự kiện tử vong thực tế mà chúng tôi báo cáo. Phân tích nguyên nhân gốc cho thấy rằng việc dự đoán nguy cơ nên bao gồm, nếu không muốn nói là nhấn mạnh, các yếu tố phẫu thuật liên quan đến cắt tuyến tụy. Trong khi các mô hình nguy cơ có thể phân biệt giữa tử vong và không tử vong một cách tập thể, chúng tính toán sai khả năng tử vong thực tế trên cơ sở cá nhân. Nghiên cứu này tiết lộ những đóng góp của cả bệnh lý đi kèm và quyết định phẫu thuật quyết liệt đối với tỷ lệ tử vong.
#tử vong #phẫu thuật cắt tụy #phân tích nguyên nhân gốc #các công cụ đánh giá nguy cơ #biến chứng phẫu thuật
Mất thị lực do tụ máu ổ mắt sau phẫu thuật tạo hình mí đôi trên bệnh nhân rối loạn đông máu: báo cáo một ca lâm sàng
Tụ máu sau phẫu thuật là biến chứng thường gặp và mất thị lực vĩnh viễn là biến chứng nặng nề nhất của phẫu thuật tạo hình mí đôi. Bài báo thông báo ca lâm sàng: bệnh nhân nữ 22 tuổi, bị chảy máu, tụ máu ổ mắt sau phẫu thuật tạo hình mí đôi liên quan tới rối loạn đông máu do dị dạng tĩnh mạch chi dưới. Do tình trạng rối loạn đông máu nặng, không thể can thiệp phẫu thuật lấy máu tụ, giảm áp, cầm máu, điều trị bằng nội khoa được đẩy mạnh với nguyên tắc: điều chỉnh tình trạng rối loạn đông máu, giảm áp lực ổ mắt bằng steroid và lợi tiểu cùng với các biện pháp hỗ trợ khác. Sau 11 tháng, thị lực mắt phải phục hồi hoàn toàn trong khi mắt trái mất thị lực vĩnh viễn. Nguyên nhân gây chảy máu, cơ chế gây mất thị lực, cách phòng ngừa và điều trị được tác giả bàn luận. Kết luận của bài báo khẳng định tụ máu và tăng áp lực ổ mắt là nguyên nhân gây mất thị lực. Rối loạn đông máu làm tăng nguy cơ tụ máu lớn, chảy máu không cầm và gây hạn chế chỉ định can thiệp ngoại khoa giải ép ổ mắt nên rất cần được khám sàng lọc và xét nghiệm trước mổ.
#Tụ máu ổ mắt #chảy máu ổ mắt #mất thị lực #biến chứng phẫu thuật tạo hình mí mắt.
Thủng cấp tính trong một lỗ rò dạ dày - hỗng môn sau khi phẫu thuật bypass dạ dày Roux-en-Y nội soi: báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC -
Tóm tắt Đặt vấn đề

Các lỗ rò dạ dày - hỗng môn là một dạng lỗ rò hiếm gặp sau phẫu thuật bypass dạ dày Roux-en-Y nội soi (LRYGB). Chúng được biết đến như là một biến chứng mãn tính. Báo cáo ca này là lần đầu tiên mô tả một trường hợp thủng cấp tính trong một lỗ rò dạ dày - hỗng môn sau LRYGB.

Trình bày ca bệnh

Một phụ nữ 61 tuổi có tiền sử phẫu thuật bypass dạ dày nội soi được chẩn đoán mắc thủng cấp tính trong một lỗ rò dạ dày - hỗng môn. Một cuộc sửa chữa bằng nội soi đã được thực hiện bằng cách đóng khuyết ở nơi nối dạ dày - hỗng môn cũng như khuyết ở đại tràng ngang. Tuy nhiên, 6 tuần sau, đã xảy ra hiện tượng tách rời ở nơi nối dạ dày - hỗng môn. Điều này đã được phục hồi bằng cách phẫu thuật mở lại túi dạ dày và nối dạ dày - hỗng môn. Theo dõi lâu dài cho thấy không có tái phát.

#lỗ rò dạ dày - hỗng môn #phẫu thuật bypass dạ dày Roux-en-Y #thủng cấp tính #biến chứng mãn tính #sửa chữa nội soi.
BIẾN CHỨNG SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY PHỨC HỢP GÒ MÁ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Gãy phức hợp gò má là những chấn thương hàm mặt phổ biến có thể dẫn đến mất thẩm mỹ và suy giảm chức năng. Trên thực tế, việc tái tạo phức hợp gò má vẫn là một thách thức đối với bác sĩ phẫu thuật hàm mặt vì vị trí quan trọng của nó trong thẩm mỹ khuôn mặt và những biến chứng, di chứng sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má. Mục tiêu: Mô tả và phân tích biến chứng sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tổng quan và phân tích dữ liệu về biến chứng sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má từ các bài báo, luận văn, luận án trên trang cơ sở dữ liệu Pubmed, Google Scholar, EBSCOhost Research Databases, thư viện trường Đại Học Y Hà Nội. Kết quả: Tổng hợp trong 926 nghiên cứu lọc tên bài và phần giới thiệu trên 3 trang cơ sở dữ liệu: Pubmed, Google Scholar, ESBCO host Research Databases được 72 nghiên cứu. Tiếp tục đánh giá chi tiết các tài liệu chọn được 7 tài liệu đạt tiêu chuẩn đưa vào phân tích: 2 nghiên cứu tiến cứu và 5 nghiên cứu hồi cứu. Kết quả phân tích cho thấy: Biến chứng được ghi nhận nhiều nhất trong các nghiên cứu là tê bì dị cảm vùng gò má, cánh mũi. Biến chứng về mắt sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gó má thường gặp là nhìn đôi, lõm mắt, lồi mắt,…Biến chứng về khớp cắn có thể gặp là hạn chế há miệng hoặc sai khớp cắn. Ngoài các biến chứng đặc trưng, phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má còn có thể gặp các biến chứng của một phẫu thuật kết hợp xương thông thường như nhiễm trùng, lộ nẹp, sẹo xấu,… Đường gãy phức tạp và di lệch có tỷ lệ biến chứng cao hơn các đường gãy đơn giản và không di lệch. Đường rạch bờ dưới ổ mắt có tỷ lệ biến chứng cao hơn các đường rạch khác. Kết luận: Các biến chứng sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má thường gặp bao gồm: nhiễm trùng, lộ nẹp, bất cân xứng khuôn mặt, tê bì, dị cảm vùng gò má, cánh mũi, nhìn đôi, sẹo xấu, hạn chế há miệng,… Một số yếu tố có liên quan đến các biến chứng sau phẫu thuật điều trị gãy phức hợp gò má như vị trí, tính chất đường gãy, vị trí đường rạch trong phẫu thuật,…
#biến chứng #phẫu thuật #phức hợp gò má #tổng quan
Nghiên cứu các biến chứng sau phẫu thuật và các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật kén khí phổi
Có 103 trường hợp được điều trị ngoại khoa xử trì kén khì phổi, trong đó có 67 trường hợp kén khì đơn thuần và 36 trường hợp kén khì kèm khì phế thũng. Biến chứng sau phẫu thuật bao gồm: Dò khì kéo dài có 30 trường hợp (29,1%), 9 trường hợp (8,7%) có tính trạng tràn khì dưới da, xẹp phổi (2 trường hợp chiếm 1,9%), sốt (2 trường hợp chiếm 1,9%), chảy máu thành ngực (2 trường hợp chiếm 1,9%), nhiễm trùng (2 trường hợp chiếm 1,9%). Những yếu tố liên quan đến các kết quả thành công trong phẫu thuật bao gồm: tuổi, nhóm bệnh kén khì, tiền sử bệnh, các biểu hiện lâm sàng, điểm khó thở theo thang điểm mMRC, phương pháp phẫu thuật.
#bệnh kén khí phổi #khí phế thũng #biến chứng sau phẫu thuật
39. TỶ LỆ NHIỄM TRÙNG THANH NÂNG NGỰC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN SAU PHẪU THUẬT NUSS ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC BẨM SINH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CĐ 8 - Trường ĐH Nguyễn Tất Thành - Trang - 2024
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng thanh sau phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, phân tích hồ sơ bệnh án của 218 bệnh nhân lõm ngực đã thực hiện phẫu thuật Nuss từ tháng 1/2019 đến tháng 5/2024. Dữ liệu bao gồm đặc điểm nhân khẩu học, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả hậu phẫu. Các phân tích thống kê, như kiểm định t-test và chi-squared, được sử dụng để xác định các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng đáng kể. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm trùng thanh là 1,4% (3/218), thấp hơn so với tỷ lệ 4% đã báo cáo ở các nghiên cứu trước đó. Nhiễm trùng liên quan đáng kể đến lõm ngực lệch tâm và sử dụng thanh kép. Tất cả bệnh nhân nhiễm trùng đều có lõm ngực lệch tâm (100%, p = 0,031), và 85,71% sử dụng thanh kép (p = 0,008). Thời gian phẫu thuật dài hơn cũng liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng cao hơn (100 ± 17,32 phút đối với nhiễm trùng so với 69,54 ± 26,41 phút không nhiễm trùng, p = 0,042). Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm trùng thanh sau phẫu thuật Nuss thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây, tuy nhiên, vẫn có các yếu tố nguy cơ đáng kể như cấu trúc ngực lệch tâm, sử dụng thanh kép, và thời gian phẫu thuật kéo dài. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa và tối ưu hóa kỹ thuật phẫu thuật là cần thiết để giảm thiểu các biến chứng và cải thiện kết quả điều trị.
#Lõm ngực #biến chứng #nhiễm trùng thanh
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CÁC BIẾN CHỨNG CỦA PHÂU THUẬT CẮT AMIĐAN Ở NHỮNG BỆNH NHÂN TRÊN 45 TUỔI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các biến chứng của cắt amiđan ở những bệnh nhân trên 45 tuổi. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả có theo dõi dọc, kết hợp hồi cứu và tiến cứu. Đối tượng: 60 bệnh nhân có chỉ định cắt amiđan được chẩn đoán và điều  trị tại bệnh viện Tai Mũi Họng TW giai đoạn 01/2019-8/2021. Kết quả: Tuổi 53,33 ± 7,48, bệnh nhân lớn tuổi nhất 80 tuổi, tỷ lệ nữ/ nam: 1,32/1. Chỉ số khối cơ thể 22,77± 2,78. Những chỉ định phẫu thuật chính: Viêm tái phát, nghi ngờ ác tính, quá phát, ung thư amiđan. Trong nhóm được phẫu thuật cắt amiđan đơn thuần: thời gian phẫu thuật trung bình  21,5± 3,9 phút, lượng máu mất đa số (85,4%) đa số ít hơn 5ml. Nhóm bệnh nhân phẫu thuật cắt amiđan kết hợp với phẫu thuật khác thời gian phẫu thuật và lượng máu mất trong mổ tăng phụ thuộc vào phẫu thuật kèm theo. Biến chứng chảy máu sau mổ 8,34% (5/60). 80% chảy máu đều nhẹ. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tuổi không thực sự là một chống chỉ định của phẫu thuật cắt amiđan. Chỉ định của phẫu thuật cắt amiđan ở những bệnh nhân trên 45 tuổi: Viêm nhiễm vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất ngoài ra có tỷ lệ cao liên quan đến khối u và ngủ ngáy. Những bênh nhân tên 45 tuổi amiđan bắt đầu xơ hóa, khó xác định ranh giới khi mổ và thường kém theo bệnh lý khác, dẫn tới tỉ lệ biến chứng chảy máu sau mổ tăng nhưng mức độ chảy máu sau mổ đa số đều nhẹ, không cần truyền máu hoặc can thiệp phẫu thuật. Tăng huyết áp có thể là yếu tố nguy cơ tăng chảy máu trong và sau mổ. Khâu ép trụ chủ động trong lúc mổ có thể làm giảm tỉ lệ chảy máu sau mổ đặc biệt là chảy máu muộn.
#Cắt amiđan #biến chứng chảy máu sau phẫu thuật #khâu ép trụ
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỐNG THÊM SAU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY BẰNG HÓA CHẤT TRƯỚC PHẪU THUẬT CẮT DẠ DÀY VÉT HẠCH D2 TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sống thêm và tỉ lệ tai biến, biến chứng của phẫu thuật cắt dạ dày vét hạch D2 đối với ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng được điều trị hóa chất tiền phẫu. Đối tượng: bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô dạ dày giai đoạn lan rộng tại chỗ tại vùng được hóa chất trước phẫu thuật cắt dạ dày vét hạch D2 tại khoa Điều trị theo yêu cầu Bệnh viện K. Kết quả: Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi trung bình 58,1 ± 9,1 tuổi, tỉ lệ nam/nữ là 1,8. Vị trí u hang môn vị chiếm  69,0%, thân vị chiếm 16,7%, tâm phình vị chiếm 14,3%. Tỉ lệ T3 chiếm 11,9%, T4 chiếm 88,1%. Tỉ lệ di căn hạch chiếm 66,7%. Đại thể u: thể loét chiếm 59,5%, thể sùi 4,8%, thể loét thâm nhiễm hoặc thâm nhiễm 35,7%. Mô bệnh học: thể kém biệt hóa hoặc tế bào nhẫn chiếm tỉ lệ cao nhất với 42,9%, thể biệt hóa vừa chiếm 38,1%, thể biệt hóa cao chiếm 19,0%. Kết quả điều trị: Đánh giá đáp ứng sau 4 đợt hóa trị trước phẫu thuật dựa trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh đạt 61,9%, dựa trên đánh giá tổn thương trong mổ đạt 83,3%. Không có bệnh nhân nào đạt được đáp ứng hoàn toàn trên lâm sàng, tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học là 4,8%. Không có bệnh nhân nào tiến triển phải chuyển phác đồ điều trị, tuy nhiên đánh giá trong mổ có 16,7% bệnh nhân không đáp ứng. Tỉ lệ tai biến biến chứng chung tương đối thấp, không có bệnh nhân tử vong hoặc mổ lại trong 30 ngày đầu, không có trường hợp nào xuất hiện các biến chứng chảy máu sau mổ, rò bục miệng nối sau mổ, tắc ruột sau mổ, hẹp miệng nối. Không phát hiện trường hợp nào xuất hiện suy gan, thận sau mổ. Gặp 2 trường hợp xuất hiện viêm phổi sau mổ chiếm 4,8% và 2 trường hợp nhiễm trùng vết mổ. Thời gian theo dõi trung bình là 28,6 tháng. Tỉ lệ sống thêm không bệnh tính đến thời điểm kết thúc nghiên cứu là 50% và sống thêm toàn bộ là 66,7%.
#Ung thư dạ dày #hóa chất tiền phẫu #vét hạch D2 #tỉ lệ tai biến #biến chứng #tỉ lệ sống thêm.
ĐÁNH GIÁ SỰ LIÊN QUAN CỦA TÌNH TRẠNG SUY YẾU (FRAILTY) Ở BỆNH NHÂN CAO TUỔI VỚI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SAU PHẪU THUẬT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Bệnh nhân cao tuổi trải qua phẫu thuật ngày càng nhiều, tuy nhiên đây cũng là nhóm bệnh nhân có sự không đồng nhất về chức năng và hoạt động sống cơ bản. Và suy yếu được xác định là yếu tố nguy cơ chính làm tăng nguy cơ tử vong, biến chứng phẫu thuật, thời gian nằm viện và hoạt động chức năng. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu ở bệnh nhân cao tuổi với kết quả điều trị sau phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 322 bệnh nhân trên 60 tuổi có trải qua phẫu thuật tại khoa ngoại tổng hợp, khoa gan mật tuỵ, phẫu thuật lồng ngực - Bệnh viện Bạch Mai chúng tôi khảo sát tình trạng suy yếu theo tiêu chuẩn Fried. Chúng tôi theo dõi bệnh nhân 30 ngày sau phẫu thuật, ghi nhận các kết cục gồm: biến chứng, tử vong trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật. Kết quả: Trong 322 bệnh nhân cao tuổi được phẫu thuật theo chương trình, có 110 bệnh nhân suy yếu trước phẫu thuật theo tiêu chuẩn Fried, chiếm tỉ lệ là 34,16%. Trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật, có 101 bệnh nhân có biến chứng/ tử vong, chiếm tỉ lệ là 31,4%. Tỉ lệ biến chứng/ tử vong ở nhóm bệnh nhân suy yếu là 57,8%; lớn hơn so với nhóm bệnh nhân không suy yếu (17,2%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Kết luận: Suy yếu là hội chứng phổ biến trên bệnh nhân cao tuổi phẫu thuật và làm tăng đáng kể biến chứng sau phẫu thuật. Nên đánh giá suy yếu một cách thường quy.
#người cao tuổi #suy yếu #biến chứng sau phẫu thuật
BIẾN CHỨNG THẦN KINH SAU PHẪU THUẬT ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC VỚI KỸ THUẬT VÒI VOI CẢI TIẾN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu các biến chứng thần kinh xảy ra ở bệnh nhân sau phẫu thuật bệnh động mạch chủ ngực có sử dụng kỹ thuật vòi voi cải tiến tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và nhìn lại y văn. Đối tượng và phương pháp: Mô tả hồi cứu các ca lâm sàng được phẫu thuật bệnh động mạch chủ ngực với kỹ thuật vòi voi cải tiến có biến chứng thần kinh từ 12/2019 đến 12/2021. Kết quả: Trong số 42 ca bệnh động mạch chủ ngực phức tạp được phẫu thuật với kỹ thuật vòi voi cải tiến, có gặp một số dạng biến chứng thần kinh, gồm: 1 ca (2,4%) liệt tủy tạm thời; 3 ca (7,1%) tai biến mạch mạch máu não; 5 ca (11,9%) bị rối loạn chức năng thần kinh thoáng qua (kích thích, sảng...). Không có ca nào bị liệt thần kinh thanh quản quặt ngược hay thần kinh hoành. Tử vong 1 ca (2,4%) bị hôn mê sâu sau tai biến mạch máu não. Kết luận: Các biến chứng thần kinh sau phẫu thuật bệnh động mạch chủ ngực có sử dụng kỹ thuật vòi voi cải tiến tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là ít gặp và tương đương các công bố trên thế giới, trong đó rối loạn chức năng thần kinh thoáng qua (kích thích) là hay gặp nhất.
#Kỹ thuật vòi voi cải tiến #biến chứng thần kinh #bệnh động mạch chủ #Việt Đức
Tổng số: 72   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8